Tam Đảo điểm nghỉ dưỡng cuối tuần của gia đình sau những ngày làm việc mệt mỏi

Cách Hà Nội khoảng 80km về phía Tây Bắc, du lịch Tam Đảo được ví như Đà Lạt, Sa Pa do khí hậu ôn hòa quanh năm mát mẻ là địa điểm nghỉ dưỡng cuối tuần của gia đình và bạn bè sau những ngày làm việc mệt mỏi. Tam Đảo do 3 ngọn núi cao nhất hợp thành: núi Thạch Bàn nằm chính giữa, núi Thiên Thị và núi Phù Nghĩa (có nơi gọi là Máng Chỉ).
Thời điểm thích hợp để du lịch Tam Đảo
Các bạn có thể đi Tam Đảo mọi mùa trong năm:
  • Mùa xuân: Là mùa lễ hội ở Tây Thiên. Đến với Tam Đảo vào dịp này, ngoài việc cầu may, cầu tài lộc; các bạn còn có thể hòa mình vào không khí lễ hội đầu xuân với rất nhiều hoạt động văn hóa đặc trưng.
  • Mùa hè: Là mùa nghỉ mát và là cũng là thời điểm thích hợp để đi du lịch. Vào dịp cuối hè, sau khi đã tham gia nhiều chương trình tham quan du lịch biển dài ngày thì đây là lúc lên Tam Đảo để tận hưởng cảm giác thanh bình trước thắng cảnh núi rừng kỳ vĩ.
  • Mùa thu và mùa đông: Đây là lúc công việc khá gấp rút cho việc tổng kết cuối năm và cũng là lúc thời tiết đã chuyển lạnh. Không còn gì thích hợp hơn việc dành ra ngày cuối tuần của mình để lên Tam Đảo hít thở không khí trong lành của núi rừng, thoát khỏi sự mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày để có thể trở lại làm việc với một năng suất cao nhất.
Điểm tham quan nổi bật khi đi du lịch Tam Đảo

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên

thiền viện trúc lâm tây thiên - cungphuot.info
Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên
Bạn có thể kết hợp trước khi lên Tam Đảo ghé thăm Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên. Đây là một thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử nằm tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng 85 km về phía tây. Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong 3 thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh Khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự (Chùa Tây Thiên, Đền Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu, Đền Cô, Đền Cậu, Đền Thõng, Thác Bạc).
Thiền viện Tây Thiên là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác.
Nếu muốn dùng bữa cơm chay với nhà chùa các bạn có thể đăng ký trước với chùa theo số điện thoại 0211 3814858. Theo Cùng Phượt thì đây là một trong những trải nghiệm khá thú vị nếu bạn chưa từng tham gia những hoạt động tương tự trước đây, ăn cơm chay và sinh hoạt cùng với các thầy trong khoảng 45 phút.

Tháp truyền hình Tam Đảo

Nằm trên đỉnh Thiên Thị có độ cao 1.375 m. Ðường đi lên tuy vất vả nhưng lãng mạn, nên thơ. Dọc đường lên là hoa phong lan, hoa cúc quỳ và các loài hoa dại không tên khác nở đầy lối đi, tỏa hương thơm lạ, mầu sắc rực rỡ… Ở nơi đây nhiều loại bướm đủ mầu rập rờn trên hoa lá, đậu, bay theo du khách như các sứ giả đón khách ghé thăm.
Để xây dựng thành công, các kỹ sư và chuyên gia trong nước cũng như nước ngoài đã phải nghiên cứu một cách rất công phu từng chi tiết nhỏ: Từ chọn vị trí ở một nơi cao như vậy có đảm bảo sự vững chắc, lắp thế nào khi tầng trên cùng của tháp thò ra vực sâu, phương án dựng tháp bằng hình thức nào (kéo cẩu hay là đẩy), đặt máy ra sao để có sức đẩy một khối lượng nặng mấy trăm tấn…Và sau bao vất vả, tính đi tính lại việc xây tháp đã hoàn thành, hiện ngọn tháp cao hơn 100m này đang tồn tại trên đỉnh núi cao 1200m.
Để lên được tháp, du khách phải leo 1394 bậc đá dốc thoai thoải, tuy không cách trở như đường lên Yên Tử hay chùa Hương nhưng cũng là một hành trình thú vị. Đường lên được bao bọc bởi cây cối hai bên. Người leo tháp vừa đi vừa nghỉ và hít thở không khí trong lành, nói chuyện cho quên đi cái mệt và nghe những âm thanh từ tiềng gió, tiếng chim hót vọng ra từ rừng.

Đền Bà Chúa Thượng Ngàn

Đền Chúa là ngôi đền thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, nơi nổi tiếng nhất của cả thị trấn đất đồi Tam Đảo. Theo truyền thuyết, hồi đầu thế kỷ 20, khi Pháp khám phá ra thung lũng xinh đẹp nầy, biến thành nơi nghỉ mát dành cho quan chức của họ, thì họ cho làm các con đường. Khi đó có một nhà thầu phụ người Việt đã bỏ tiền xây đền Chúa. Theo lời truyền khẩu của dân địa phương và một số tư liệu, đây là nơi thờ Bà Chúa Thượng Ngàn.
Có con đường dốc thoai thoải, cảnh trí đẹp, nổi tiếng linh thiêng, đền Chúa thu hút nhiều khách thập phương đến viếng, lễ bái. Hấp dẫn nhất là những ngày mồng Một, ngày rằm hàng tháng, đền Chúa đều có hầu đồng. Trong tiếng trống, tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng nhị, tiếng phách hối hả rền vang của phường chầu văn là giọng hát qua máy vi âm bổng trầm như kể lể, tha thiết, lê thê của chàng cung văn, các bà, các cô đồng xinh đẹp áo quần lộng lẫy biểu diễn những màn khua hương, múa hoa, múa kiếm, cỡi ngựa… rất mềm mại và điêu luyện.

Thác Bạc

Thác Bạc 
Thác Bạc nằm trong địa phận thị trấn Tam Đảo, là thác đẹp nhất có dòng nước trong vắt bắt nguồn từ khe núi len lỏi qua các vòm cây xanh mát. Để đến với dòng thác thơ mộng này, bạn tản bộ đến khu chợ trung tâm thị trấn rồi vòng qua con đường hướng phía đông sẽ gặp đường xuống thác.
Đường dẫn xuống thác Bạc không quá dài nhưng cheo leo dựng đứng được thiết kế bằng những bậc tam cấp lót đá xanh. Do đường mở trong núi, một bên núi một bên vực nên thành đường có tay vịn, có một vài điểm để khách dừng nghỉ chân. Hiện nay, dọc đường xuống thác, nhất là vào những ngày cuối tuần khách đến tham quan chật cả đường đi. Cũng dọc con đường này, có rất nhiều hàng nước, bạn có thể dừng chân nghỉ bất cứ lúc nào.
thác bạc tam đảo
Nhiều bộ ảnh đẹp được thực hiện ở Thác Bạc
Đặc biệt xuống thác Bạc, bạn như có cảm giác được về với khu rừng nguyên sinh trù phú. Ở đây khí hậu mát mẻ, cây rừng xanh tốt uy nghiêm tỏa bóng. bạn không còn lạ mắt khi thấy những chú chim rừng, chú sóc dạn dĩ quen thuộc bên đường.
Theo người bản địa, những khi trời mưa dòng nước thác sẽ lớn hơn, đẹp hơn. Lúc này nhìn dòng thác trắng xóa như mái tóc bà tiên buông xõa dài theo vách núi đá giữa đại ngàn. Những khi trời nắng kéo dài, dòng nước sẽ chảy nhẹ nhàng hơn.

Nhà thờ đá cổ Tam Đảo

Đây là một điểm tham quan khá lý thú, đứng trên nhà thờ cổ bạn cũng có thể nhìn thấy toàn cảnh thiên nhiên Tam đảo rất mộng mơ. Bạn có thể chụp ảnh lưu niệm với bạn bè và người thân của mình. Rất nhiều cặp tình nhân chọn nơi này làm nơi chụp ảnh cưới cho mình.
Theo tài liệu, nhà thờ Tam Đảo được xây dựng từ năm 1906 đến năm 1912, tọa lạc tại trung tâm thị trấn Tam Đảo, bên con đường dẫn lên đỉnh núi Thiên Nhị. Ban đầu, người Pháp chỉ dựng mô hình nhà sàn lợp lá, đến năm 1937 nhà thờ chính thức được xây dựng lại kiên cố bằng đá và tồn tại cho tới ngày nay. Về mặt kiến trúc, nhà thờ Tam Đảo được xây dựng bằng đá trên một triền đất cao theo mô hình kiến trúc Gothic. Công trình đứng uy nghi, trầm mặc. Tầng dưới của tòa nhà rộng rãi, có nhiều lối đi bên cạnh mặt đường lớn, hai bên có hai cầu thang dẫn lên tầng trên. Tầng trên có một khoảng sân rộng với những vòm cửa cong cong bao quanh, thoáng đãng. Bên trong là ngôi thánh đường rộng và liền đó là gian tháp chuông cao vút đứng chọc trời.

Trekking Tam Đảo 2 và Đỉnh Rùng Rình

Nói đến Tam Đảo, du khách thường hình dung về một khu nghỉ mát hấp dẫn, của những biệt thự nghỉ dưỡng tiện nghi,… còn có một Tam Đảo rất khác. Một Tam Đảo với những ngọn núi nối tiếp nhau khoe mình dưới nắng, những khu rừng xanh mướt tầm mắt, của rừng trúc đẹp như trong mộng, của của những con dốc cao nối tiếp nhau tưởng như vô tận; hay những con đường dưới chân là thảm lá, trên đầu là bóng cây che; là một Tam Đảo của bầu trời xanh rì, của nắng chiều vừa đủ để làm má người con gái ửng hồng. Là Tam Đảo của đêm trên đỉnh núi gió thổi lạnh tê người, vầng trăng khuyết chưa bao giờ đẹp đến thế. Nơi hấp dẫn các bạn trẻ và du khách ưa khám phá trong và ngoài nước, bởi đây là điểm xuất phát cho các cung đường trekking xuyên rừng của Vườn quốc gia Tam Đảo. Du khách sẽ thật sự ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ của núi rừng và sự tươi đẹp của thiên nhiên nơi đây.
Tam Đảo là dãy núi có chiều dài khoảng 50km, với diện tích 850km2, theo hướng Đông Bắc – Đông Nam, nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt đối là 1.591m. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có 3 ngọn núi nhấp nhô ẩn hiện trong biển mây là đỉnh Thiên Thị (cao 1.591m), đỉnh Thạch Bàn (cao 1.420m) và đỉnh Phù Nghĩa (Phù Nghì, Máng Chỉ, cao 1.250m), về độ cao và tên gọi của 3 đỉnh này hiện các nguồn thông tin vẫn chưa thống nhất. Hiện nay, có nhiều tuyến trekking tại Vườn quốc gia Tam Đảo, trong số đó cung đường được lựa chọn nhiều nhất là chinh phục ba đỉnh Tam Đảo.
Từ những năm 30 – 40 của thế kỷ trước, Tam Đảo và vùng phụ cận hiến cho du khách một hệ thống đường du ngoạn, thám hiểm phong phú, thú vị không kém nơi nghỉ mát nào khác. Tính từ trung tâm thị trấn, đó là các tuyến: Tuyến lên đỉnh phía Bắc; tuyến lên đèo Thái Nguyên; tuyến lên đỉnh phía Nam; tuyến khám phá vành đai; tuyến lên đỉnh Thạch Bàn, Thiên Thị; tuyến đường Đá trổ.
Những ai từng trek Tam Đảo hầu hết thừa nhận ở Tam Đảo có những cung đường độc đáo rất đáng để khám phá, thậm chí còn hấp dẫn và phiêu lưu hơn chinh phục đỉnh Fansipan. Bao trùm Tam Đảo là những cánh rừng biến đổi liên tục theo độ cao của núi, từ rừng rậm nhiệt đới ẩm nguyên sơ với các thân cây lớn, lá to, dây leo chằng chịt, tới cây lá kim, cây thấp và bụi rậm ẩm thấp, rừng thứ sinh trồng keo, bạch đàn ở dưới chân núi và lưng chừng núi. Lên gần tới đỉnh núi lại là những rừng trúc bạt ngàn với thân nhỏ, chắc, thẳng tắp, lá xanh mướt ken dày đặc vào nhau. Đi trong rừng trúc, phảng phất một chút sương khói tạo nên bởi độ cao, cho bạn cảm giác bồng bềnh mờ ảo bao trùm khắp không gian…
Cung đường trek từ thị trấn Tam Đảo sang chùa Địa Ngục như dẫn bạn vào một mê cung. Qua mỗi khúc cua, bạn tưởng rằng mình đã đi qua khúc cua đó, nhưng kỳ thực không phải vậy. Thi thoảng xuất hiện những lá cờ phướn như để dẫn lối vào chùa Địa Ngục. Nhiều đoạn tán rừng che hầu hết ánh sáng, có đoạn rừng trúc phủ kín chỉ còn một lối mòn sâu hun hút. Bạn sẽ thấy hồ hởi khi đi qua đoạn quang đãng, ánh mặt trời khích lệ người chinh phục càng hăng say tiến về phía trước. Bạn cũng có thể tận dụng những đoạn này để chụp những tấm ảnh làm kỷ niệm. Chừng nửa đoạn đường giữa một khúc cua cạnh con suối thấy xuất hiện một bát hương gợi màu sắc tâm linh. Mùa hè số lượng các lạch suối nhiều hơn, nhưng mùa nào cũng vậy, những dòng suối vẫn mát lạnh, chảy hiền lành và trong leo lẻo. Trước khi đến chùa Địa Ngục, có một lối mòn dẫn bạn lên đỉnh một đỉnh núi mang một cái tên rất lạ. Theo những người dân sinh sống lâu năm tại đây cho biết, khi leo lên đỉnh này ở độ cao hơn 1.200m dưới những tán rừng nguyên sinh rong rêu bao phủ, du khách sẽ bước trên các thảm thực vật và có cảm giác êm ái bập bềnh. Chính vì thế ngọn núi này được người địa phương gọi là đỉnh Rùng Rình.
Có nhiều nhóm trek đi về trong ngày, nhưng một số các nhóm sẽ cắm trại qua đêm phụ thuộc vào việc lựa chọn tuyến trek. Thường địa điểm cắm trại gần các đỉnh núi (Thạch Bàn, Thiên Thị) vì từ đó bạn có thể ngắm vùng đồng bằng về đêm. Cắm trại đêm trên núi, nhất là những đêm giữa tháng, trăng sáng vằng vặc, thật là một cảm giác phiêu bồng. Đêm trên đỉnh, nhìn ra xung quanh, thấy đất trời tối thẫm một màu như được nối liền bằng một dải sương màu bạc. Xa xa thấp thoáng một vài ánh đèn của thị trấn Tam Đảo ẩn hiện trong làn sương. Xung quanh là rất nhiều đỉnh núi lớn nhỏ đứng trầm mặc như canh gác cho những người khách bộ hành. Văng vẳng trong đêm là tiếng kêu của muông thú đi ăn. Càng về khuya trời càng lạnh. Sương lúc này đã đọng thành từng hạt rơi lộp bộp trên mái lều, xào xạc trên các tán cây rừng. Giữa rừng núi mênh mang sương lạnh, bồng bềnh như tiên cảnh, nhấp một ngụm rượu ngọt thơm, bạn sẽ thấy ấm áp lạ kỳ…
Cảnh sắc đẹp và nên thơ là vậy, nhưng đường trek Tam Đảo phần nhiều đi qua rừng rậm, rừng trúc, độ dốc không quá lớn nhưng một số đoạn, đặc biệt những đoạn gần tới đỉnh Thiên Thị, Thạch Bàn và phần lớn đường leo lên đỉnh Phù Nghĩa có độ dốc khá cao, nhiều đoạn gần như thẳng đứng, không có lối đi. Những trekker phải bám vào các rễ cây, tảng đá để leo lên. Nhiều đoạn gần như phải đu mình trên các rễ cây rừng, nếu không cẩn thận có thể trượt ngã. Những lúc gặp mưa rừng là những lúc khó khăn nhất. Thường thì các nhóm trek thuê porter (người khuôn vác) vừa là người chỉ đường (thay cho hướng dẫn viên địa phương – local guide), vừa giúp khuôn vác đồ. Dẫu vậy, người đi trước vẫn phải bám theo người đi sau hoặc dùng dao chặt vào thân cây để đánh dấu tránh lạc đường.
Ngắm mây từ đỉnh Tam Đảo 
Vượt qua khó khăn và mệt mỏi, các đỉnh Thạch Bàn, Phù Nghĩa lần lượt được chinh phục. Đứng trên đỉnh núi, ngồi nghỉ ngơi, uống nước rồi thong thả ngắm cảnh núi rừng, ngắm đất trời mở rộng về bốn phía mới thấy đẹp đến nao lòng. Thú vị là đứng trên đỉnh Phù Nghĩa vào những ngày trời trong, còn có thể nhìn thấy TP Thái Nguyên và hồ Núi Cốc thấp thoáng ở xa xa. Nhìn ngắm thị trấn Tam Đảo nhỏ bé, xinh đẹp hiện ra trong nắng chiều vàng như rót mật, hẳn những ai ưa khám phá đều mong có những dịp như vậy.

Chùa Địa Ngục (Địa Ngục Tự)

Chùa Địa Ngục không rõ xây từ thời nào, nhưng theo cuốn Kiến Văn Tiểu lục của Lê Quý Đôn mô tả là một khối kiến trúc vuông vức, mỗi cạnh dài khoảng một trượng, các tường bao quanh chùa đều bằng đá. Thường ngày hai cánh cửa ra vào khóa kỹ bằng một khóa sắt lớn và trong khuôn viên có đặt viên đá ghi rõ: Địa Ngục tự (tức chùa Địa Ngục)

Vườn Quốc Gia Tam Đảo

Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, một dãy núi lớn dài trên 80 km, rộng 10–15 km chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Tam Đảo), Thái Nguyên (huyện Đại Từ) và Tuyên Quang (huyện Sơn Dương), cách Hà Nội khoảng 75 km về phía Bắc.
Mời bạn đọc:



























Kinh nghiệm du lịch Tam Đảo

Đặc sản Bà Rịa – Vũng Tàu

Vũng Tàu là vùng đất vừa có núi rừng vừa có biển cả, nên mà đặc sản nơi đây vốn có vô vàn món ăn truyền thống ngon, lạ miệng. Đặc sản địa phương vô cùng đa dạng như bánh canh Long Hương, bún nóng Hoà Long, bánh hỏi An Nhất; hay nhiều những món ăn dân dã, lạ lẫm như bánh khọt, bánh bèo, thịt nướng.So với các món ăn cầu kỳ khác, bánh khọt là món ăn dân dã mang hương vị riêng biệt của Vũng Tàu. Màu trắng của bột gạo như quyện cùng với vị béo ngậy của mỡ hành và độ ngọt của tôm tươi, vị thơm của tôm khô chà nhuyễn trong món bánh khọt như hút hồn thực khách thưởng thức.Bên cạnh bánh khọt, bánh hỏi cũng là đặc sản của vùng An Nhứt, được làm bằng một thứ gạo đặc trưng; khi ăn có thể cuốn với rau sống, thịt nướng…Ngon nhất vùng Long Hải không thể bỏ qua bánh xèo giòn tan, màu vàng tươi, thơm ngon như khiến người ăn có thể cảm nhận được hương vị đặc trưng khác biệt không bị pha lẫn.
1. Lẩu cá đuối
Lẩu cá đuối
Lẩu cá đuối
Cá đuổi là loại cá chỉ có sụn mềm, được nhiều người ưa chuộng và yêu thích các món ăn được chế biến từ cá đuối như nướng, xào lăn, lẩu. Để nấu lẩu cá đuối, người ta làm kỹ cá, bỏ mang, rửa ruột sau khi rửa sạch cá và tiếp tục rửa qua nước muối hoặc giấm, hay rượu nhằm cản bớt tanh cho cá.
Thái cá thành từng miếng nhỏ ướp gia vị, phần sụn được cắt nhỏ ninh cho nước ngọt. Khi nước ninh cá sôi, cho gia vị nêm vừa ăn, cho thêm chút nước cốt me, măng chua, rau ngổ và ngò gai thái nhỏ hoặc cắt khúc vào. Do thịt cá đuối khá nhanh chín nên người ăn chỉ cho phần thịt cá đã ướp vào khi ăn. Lẩu cá đuối thường được dùng chung với rau chuối thái, rau muống bào, bún tươi, bát nước mắm ngon và ớt tươi.
Lẩu cá đuối thường có vị khá đậm, thịt hơi dai khi chín tới, sụn thì giòn khiến thực khách ăn mà không hề cảm thấy ngán hay ngấy.
2. Rượu đế Hòa Long
Rượu đế Hòa Long
Rượu đế Hòa Long
Rượu đế Hòa Long có một vị nồng đặc trưng mà những người sánh rượu cho rằng “uống đến đâu biết đến đó”. Hương vị đặc biệt đó được tạo ra từ bí quyết chọn nguyên liệu, chưng cất và nguồn nước ngọt của vùng Hòa Long đã khiến hương vị của rượu nồng nàn hơn, thơm ngon hơn.
3. Canh chua tương me
Canh chua tương me
Canh chua tương me
Canh chua tương me được biết đến là món ngon, được lòng thực khách bốn phương, nhưng thông tin về món ăn hấp dẫn này lại không hề có nhiều. Nếu là một món canh chua me bình thường thì nguyên liệu chính có thể sẽ được biết đến ngay từ tên của món ăn, ví dụ như canh chua cá bớp, canh chua cá lóc… ; nhưng canh chua tương me Vũng Tàu lại ẩn chứa nguyên liệu chính làm nên nó một cách khác biệt.
Để nấu canh chua tương me, người ta dùng cá ngao, cá thiều, cá lò hoặc cá đù. Ngoài ngò ôm, ngò gia, húng quế, ớt, me chua; thì canh chua tương me không thể không có sả và tương hột. Cách nấu món canh này không khác cách nấu các món canh chua khác nhiều, ngoài việc cho tương hột được dầm ra vào nồi canh.
4. Tiết canh tôm
Tiết canh tôm
Tiết canh tôm
Tôm còn sống, rửa thật sạch đất cát, gập chặt lưng rồi dùng dao nhọn chọc vào phần gáy tôm. Tiết tôm màu trắng chảy thẳng xuống đĩa nhân đã được chuẩn bị sẵn, ban đầu thành vòi nhỏ, sau đó ri rỉ cho đến hết. Tiết tôm luôn có lẫn nước, khi tiết đã đông phần nước nổi lên mặt, phải dùng giấy thấm cho thật khô rồi mới rắc lên ngò rí, đậu phộng giã nhỏ…
Tiết canh tôm ăn là lạ, phần thịt tôm mềm lẫn với tiết tôm sần sật như rau câu, ăn chung với bánh tráng và dùng làm mồi uống rượu như các loại tiết canh khác, nhưng phần rau thì ngoài ngò gai, không thể thiếu rau diếp cá, khế chua, chuối chát. Tiết canh tôm hùm chỉ là một món ăn chơi khai vị, mang tính chất thưởng thức bởi lượng tiết của chúng lấy được không phải là nhiều như tiết của những loại động vật khác.
5. Mứt hạt bàng Côn Đảo
Mứt hạt bàng Côn Đảo
Mứt hạt bàng Côn Đảo
Quả bàng đem về phơi khô chừng 4-5 nắng rồi dùng dao đập vỏ tách lấy hạt. Mất vài giờ đồng hồ vừa chẻ vừa tách trái bàng, dùng tăm khều lấy hạt cũng chỉ được vài trăm gam hạt. Hạt bàng mới tách ra có màu nâu giống như màu gỗ, sau đó rang muối hoặc rang đường để có được những hạt bàng đều nhau.
Rang chính là công đoạn quyết định chất lượng, nếu lửa quá già hay quá non có thể làm cho cả mẻ mứt bị hỏng, bên cạnh đó trong quá trình đun lửa, người làm mứt phải nhanh tay đảo đều cho khỏi cháy.

<! đang cập nhật>

Đặc sản Thành phố Hồ Chí Minh

Ẩm thực Sài thành thuộc tốp hàng đầu trong cả nước, bởi thành phố Hồ Chí Minh vốn từng là trung tâm điểm của vùng đất phương Nam trù phú, với sản vật dồi dào, các món ăn Sài Gòn đa dạng và dễ thưởng thức. Đồng thơi, nơi đây cũng là nơi hội tụ của cộng đồng từ khắp mọi miền đất nước và là cửa ngỏ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, chính vì vậy, việc thành phố tiếp nhận thêm các dòng ẩm thực trong và ngoài nước không có gì là ngạc nhiên.

1. Lẩu mắm miền Tây

Lẩu mắm miền Tây
Lẩu mắm miền Tây
Lẩu mắm mang hương vị đậm đà, thơm ngon, được chế biến từ các loại cá sông, cá đồng cùng nhiều loại rau có sẵn ở vườn nhà. Nhờ sự sáng tạo trong nấu ăn mà người miền Tây đã làm nên món lẩu mắm ngon độc đáo, được nhiều người, kể cả những người sành ăn ở Sài Gòn yêu thích.
Để có một nồi lẩu thơm ngon là cả một quá trình chế biến công phu kéo dài. Mắm nấu cho món này phải có ít nhất là ba loại: mắm sặt để có mùi thơm; mắm trèn để tăng vị ngọt đậm, màu sắc thắm đượm và mắm linh với cái hơi nhân nhẩn béo đặc biệt của cá đồng.
2. Bún mắm

Giống như lẩu mắm, nước dùng cho bún mắm là thành phần quan trọng nhất, thu hút thực khách của món ăn dân dã này. Nước dùng được nấu từ mắm các loài cá linh, cá sặc, cá lóc hay cá trèn với bí quyết riêng của từng quán, được gia giảm để tránh sự nặng mùi hay vị gắt của mắm mà không làm mất đi hương vị đậm đà của món ăn. Món ăn này phù hợp với khẩu vị của người Sài Gòn, không quá ngọt, quá mặn hay cay mà cũng không hề nhạt nhẽo.
3. Bún bò Huế
Bún bò Huế
Bún bò Huế
Cũng như nhiều món ăn của đất cố đô, bún bò Huế cầu kỳ trong cách chế biến, đặc biệt là nước dùng. Để có được nồi nước dùng thơm ngon, người bán phải trải qua một quá trình phức tạp. Đầu tiên, lựa chọn mua xương ống, xương đầu về rửa sạch rồi ninh nhừ trong nhiều giờ đồng hồ. Các loại rau quả, thảo dược như: quế, hoa hồi, dứa, hành tây, sả… được sử dụng để làm tăng hương vị thơm, ngọt cho nồi nước dùng. Để đạt được chuẩn “ngon”, nước dùng của một tô bún bò Huế phải trong, nếm vào phải cảm nhận được vị ngọt của nước xương, thịt hầm. Độ ngon của nước dùng tùy thuộc vào khả năng nêm ruốc của người nấu. Nếu là người dân xứ Huế thì phải có mắm ruốc vào bún thì mới gọi là bún bò thực sự. Còn người Hà thành hay Sài thành thì không ưa mùi mắm nên các quán bún bò Huế thường gia giảm mắm ruốc cho phù hợp với khẩu vị của người dân nơi đây.\
4. Chim cút chiên bơ
Chim cút chiên bơ
Chim cút chiên bơ
Chim cút chiên bơ hấp dẫn bởi hương thơm ngào ngạt, là một trong những món ngon độc đáo của người Sài Gòn. Với vị ngọt của thịt và hương thơm của các loại gia vị chế biến, món cút chiên bơ là món ăn khoái khẩu của các bạn trẻ và nhiều người lớn cũng như trẻ em khác.
Chim cút chiên ngon là những con cút ánh màu nâu vàng tự nhiên chứ không phải màu đỏ thực phẩm. Khi ăn, phần thịt béo, mềm, còn phần đầu, cánh và chân phải giòn tan.Người ta không chỉ ăn cút chiên bơ vì không cưỡng được mùi thơm của nó. 
Người ta ăn vì thèm, vì nhớ, vì thích hàn huyên cùng bạn bè bên đĩa cút chiên thơm lừng và ổ bánh mì nóng hổi. Lớp trẻ thích rủ nhau đi ăn cút chiên bơ. Cút chấm với muối tiêu vắt thêm nửa trái quất chua, mặn, cay còn bánh mì lại chấm với nước cút đậm đà béo ngậy.
5. Gỏi khô bò
Gỏi khô bò
Gỏi khô bò
Gỏi khô bò là một món ăn đơn giản, dễ chế biến. Đi ăn gỏi khô bò cũng không phải đợi lâu. Vừa gọi món đã có ngay một đĩa gỏi đầy màu sắc mà ngon miệng. Khô bò thường là loại phổi bò qua chế biến và ướp gia vị kỹ, không giống như loại khô làm từ thịt bò được đóng gói bán sẵn trong các siêu thị.
Gỏi khô bò ăn với đu đủ bào sợi (đã ngâm nước muối để tăng độ giòn). Phía trên được trang trí bởi mấy cọng rau răm thái nhỏ, tăng mùi vị và tạo màu sắc bắt mắt, thêm mấy hạt đậu phộng rang vàng giòn rụm.
6. Ốc Sài Gòn
Nếu xếp hạng các món ăn phổ biến nhất Sài Gòn thì ốc có lẽ là đề cử số một. Không chỉ len lỏi trong từng con hẻm nhỏ mà ngoài đường lớn vẫn có thể tìm ra một quán ốc để dừng chân. Không cần nguyên liệu cầu kì phức tạp, vẫn là những món nghêu, sò, ốc… giản dị thân quen mà vùng miền nào cũng thấy. Cái làm nên nét đặc sắc cho ốc Sài Gòn là cách chế biến đầy sáng tạo, mang đậm dấu ấn ẩm thực địa phương.
Ốc Sài Gòn
Ốc Sài Gòn
Các món nướng mỡ hành như sò lông, sò điệp, chem chép, sò dương, sò lụa… thơm mùi hành lá xào qua mỡ luôn được các thực khách ưu tiên lựa chọn. Ăn để húp nước ốc xùm xụp thì chọn nghêu, ốc móng tay, chem chép, ốc bươu, ốc gạo hấp hay xào gừng sả. Món ốc đồng (nước ngọt) xem ra bị thất sủng hơn – điều rất khác biệt so với nhiều địa phương khác như Hà Nội, Huế – nhưng vẫn đủ cả hấp, xào lẫn nhồi thịt. Ai thích chua ngọt thì chọn món ốc, hột vịt lộn xào me, còn người ưa thưởng thức hương tỏi thơm lừng đã có các món ốc cháy tỏi. Riêng thực khách ghiền món đậm đà gia vị thì chọn ốc giác, ốc hương, ốc đỏ xào sa tế.


<! đang cập nhật >

Đặc sản Quảng Bình

Mảnh đất Quảng Bình cũng được ví như một bức tranh khổng lồ với rừng núi, sông biển, hải đảo, đồng bằng và các thắng cảnh nức lòng du khách như đèo Ngang, đèo Lý Hòa, biển Nhật Lệ, phá Hạc… và nổi tiếng nhất là Phong Nha – Kẻ Bàng. Mặt khác, những cảnh quan hấp dẫn du lịch như đèo Ngang – Hoành Sơn cùng các bãi biển dọc theo là điểm mà bất cứ du khách nào cũng không bỏ qua được.
Quảng Bình có rất nhiều món ăn được sản hấp dẫn du khách du lịch nơi đây. Mình xin đưa ra một số món mà mình đã từng được ăn, còn nhiều lắm nếu có dịp bạn nhớ thưởng thức nhé !

1. Béo ngậy sò huyết Sông Roòn

Quảng Bình có nguồn hải sản rất phong phú, trong đó nổi bật phải kể đến sò huyết bắt ở sông Roòn. Theo mình cảm nhận thì sò huyết ở đây khá to, thịt chắc và thơm. Các bạn cùng tìm hiểu về món ăn này nhé.
Béo ngậy sò huyết Sông Roòn
Béo ngậy sò huyết Sông Roòn
Sông Roòn thuộc địa phận huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, được bắt nguồn từ núi Động Mưa (thuộc lũy Hoành Sơn), chảy xuống xã Quảng Châu, qua thị trấn Ba Đồn thì đổ ra cửa Cảnh Dương (hay còn gọi là cửa Ròn). Con sông này nổi tiếng với loài sò huyết hảo hạng và đặc biệt thơm ngon. Chỉ ở khúc sông này mới có sò huyết ngon như vậy vì đây là nơi giao hòa giữa hai dòng nước ngọt tinh khiết (chảy từ đập Vực Tròn về) và dòng nước mặn chảy từ biển Đông lên.
2. Ấm lòng bát cháo hàu Quảng Bình
Ấm lòng bát cháo hàu Quảng Bình
Ấm lòng bát cháo hàu Quảng Bình
Để chế biến những tô cháo ngon, người ta đem hàu xào với các gia vị như hành, ớt, tiêu cùng muối, bột ngọt. Chỉ cần có khách gọi, chủ quán sẽ lấy cháo để một nồi riêng, cho thêm lửa đun lên rồi bỏ hàu xào vào, nêm thêm nước và các loại gia vị, rau thơm cho vừa miệng. Nếu các bạn có dịp ghé quá thị trấn Quán Hàu, Quảng Bình thì đừng quên thưởng thức món cháo hấp dẫn này nhé.
3. Chung vui bên đĩa ốc ruốc Quảng Bình
Chung vui bên đĩa ốc ruốc Quảng Bình
Chung vui bên đĩa ốc ruốc Quảng Bình
Ốc ruốc không cần luộc như các loại ốc bình thường mà chúng được nêm muối, bột ngọt, lá chanh, ớt, cho thêm nước vào để xào nhanh với dầu ăn là chín. Người đầu bếp cần phải biết cách làm thật khéo nếu không muốn ốc bị teo hết thịt, vừa khó để nhể, lại mất đi độ giòn và ngọt.
4. Rượu cần của người Ma Coong
Khi làm men rượu, người Ma Coong phải kiêng kị một số điều như: Phải chọn hướng ánh sáng mặt trời khi lấy nguyên liệu; người làm men phải kiêng kị nhiều thứ trong ba ngày, ba đêm (không sát sinh, không tắm, không đưa lửa qua suối…). Người dân bản địa cho rằng, nếu như ai làm men mà vi phạm những điều cấm kỵ này thì men không còn tác dụng, và chính người làm men đó cũng sẽ không còn được làm men nữa.
Rượu cần của người Ma Coong
Rượu cần của người Ma Coong
Rượu cần được làm bởi các nguyên liệu lấy từ sắn, ngô, gạo, nếp rẫy, và những sản phẩm do chính tay người Ma Coong làm ra. Dù là từ nguyên liệu nào, thì gạo nếp vẫn được bà con thường sử dụng nhiều nhất bởi vì nó cho sản phẩm thơm ngon, đậm đà và đặc biệt là cho ra nhiều rượu nhất.
5. Cá nghéo bao tử quý hiếm ở Quảng Bình
Cá nghéo bao tử quý hiếm ở Quảng Bình
Cá nghéo bao tử quý hiếm ở Quảng Bình
Người ta lọc thịt hai bên mình cá để làm lẩu, còn đầu, xương và lòng cá cho vào nồi nấu cháo. Thịt cá được thái mỏng như thịt bò, ướp gia vị và mắm muối cho đậm đà, ướp trước khi cho nấu lẩu khoảng nửa giờ. Nước lẩu có thể dùng nước ăn bình thường, nếu có điều kiện thì dùng nước dừa nạo hoặc vài chai xá xị thì tuyệt ngon. Người ta nấu nước sôi, cho cà chua và trái thơm làm nước chan bún ăn với lẩu. Khi ăn, người ta nhúng cá vào nước lẩu, chỉ cần nhúng tái rồi cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm nước mắm ớt tỏi nhâm nhi cùng chén rượu nồng. Thịt cá nghéo thơm, săn chắc như thịt bò chứ không mềm nhẽo như các loại cá khác. Hết cá rồi thì người ta tiếp tục dùng bún chan nước lẩu ăn cho chắc dạ.
6. Ruốc tháng sáu – sản vật quý hiếm của Quảng Bình
Ruốc tháng sáu – sản vật quý hiếm của Quảng Bình
Ruốc tháng sáu – sản vật quý hiếm của Quảng Bình
Ruốc tươi thường được chế biến ra thành ruốc ăn, hay gọi là ruốc quết, qua những công đoạn đơn giản. Người ta muối ruốc vào vại, chum bằng muối mặn thì ruốc để được lâu, khỏi sợ hỏng; còn nếu muốn ăn vội thì chỉ cho muối nhạt thì ruốc sẽ ngon và ngọt hơn, tuy nhiên thời gian bảo quản sẽ ngắn. Khi muối xong,người ta để vại một đêm hoặc một buổi, rồi đem vắt kiệt con ruốc thành bột vo tròn như bã bột sắn.
7. Ngọt bùi khoai deo Quảng Bình
Ngọt bùi khoai deo Quảng Bình
Ngọt bùi khoai deo Quảng Bình
Khoai deo được chế biến rất đơn giản và không tốn nhiều công sức. Nói đơn giản nhưng để có khoai deo ngon thì phải có bí quyết riêng của mỗi người chế biến. Theo người dân ở đây chia sẻ, khoai lang sau khi thu hoạch về không nên làm ngay mà phải chất đống một thời gian để khoai được ráo nước, nhưng không được để đến khi mọc mầm (khoai mọc mầm ăn rất độc). Khi khoai bớt tươi, bề ngoài củ không còn căng mọng và sáng màu thì đem rửa sạch rồi luộc chín.

<! đang cập nhật >

Đặc sản Nghệ An

Nằm cách thủ đô Hà Nội 291km về phía Nam, Nghệ An thuộc vùng Bắc Trung Bộ và là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam. Với lợi thế đất rộng, người đông, điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng cùng thế mạnh là lưu giữ được nhiều những di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh…, Nghệ An đang ngày một chuyển mình mạnh mẽ để thu hút khách thập phương cũng như phát triển kinh tế khu vực.
du lịch Nghệ An du khách có thể thưởng thức nhiều các món ăn đặc sản như miến lươn, cháo lươn, cháo gà, xáo trứng, bún chả… hay mua cu đơ, tương Nam Đàn về làm quà cũng là sự lựa chọn của nhiều du khách.
1. Bánh đúc hến Nam Đàn
Bánh đúc hến Nam Đàn
Bánh đúc hến Nam Đàn
Về Nam Đàn thăm quê hương Bác, tiện đường Dolly tranh thủ ghé qua nhà anh bạn chơi. Trong bữa cơm trưa cùng gia đình, Dolly được thưởng thức món bánh đúc hến Nam Đàn nổi tiếng mà anh vẫn thường ngân nga mỗi khi nhớ về quê nhà: “Sa Nam trên bến dưới đò. Bánh đúc ba dãy, thịt bò mê thiên”.
Khi bột chín thì đổ ra rổ tre có lót lá chuối tươi bên dưới, đợi đến khi rổ bánh đúc nguội hẳn thì dùng dao cắt khối bánh thành những kích thước tùy ý. Nếu để làm bánh đúc hến thì kích thước chỉ cần to tương đương hai đốt ngón tay là đủ.

2. Cá rô hương bưởi

Cá rô chọn loại màu vàng đầu nhỏ, thân mập, xương mềm, nhiều thịt và được bán nhiều vào tháng 9, tháng 10 âm lịch khi cây lúa đã làm sữa và chín dần, thoảng mùi thơm.
Cá rô hương bưởi
Cá rô hương bưởi
Cá rô vàng được bắt về thì chưa làm sạch vội mà đặt nồi đất nung lên bếp than hồng rực lửa đợi đến khi nồi nóng thì cho cá vào, lấy rổ úp lên, đợi cho đến khi cá thoi thóp thì lật cá cho nóng đều hai mặt, ấn cho mình cá thẳng băng rồi đổ ra rổ.
Lót lá bưởi vào đáy nồi, mỗi lá đặt một con cá nằm đè lên trên theo chiều dài chiếc lá rồi phủ lên mình cá lá bưởi (cứ một con cá phủ một lá bưởi), đậy nắp vung lại rồi để trên bếp khoảng 30 phút đến khi lá bưởi khô, cá đã chín thơm thì lật mặt cặp lá bưởi mặt trên xuống mặt dưới rồi tiếp tục hấp khô trong vòng 20 phút. Đến khi lá bưởi cháy đen, hai bên lườn cá vàng đều thì công đoạn tẩm ướp hương bưởi đã được hoàn tất.
3. Cay nồng ốc xào đập trôn
Cay nồng ốc xào đập trôn
Cay nồng ốc xào đập trôn
Ốc xào đập đít hay còn được gọi là ốc xào đập trôn là một món ăn dân dã nhưng lại quen thuộc với mọi người. Hầu như ở bất kỳ đâu cũng có nhưng những con ốc sinh sống ở vùng đất Nghệ An với điều kiện thuận lợi, thiên nhiên ưu đãi lại luôn béo tròn, hương vị ngọt lịm.
Những con ốc sau khi được bắt từ ao, ruộng lên sẽ được ngâm trong nước vo gạo cho đến khi chúng nhả hết cặn rồi chà đi chà lại thật kỹ sau đó mới đem chế biến.
4. Bánh ngào Nghệ An
Bánh ngào cũng có nhiều loại, bánh có nhân đậu xanh, nhân thịt heo hoặc bánh không nhân. Vui nhất trong khâu làm bánh ngào chính là lúc nặn bánh. “Véo” một phần bột trong tay, dát ra cho đều và đặt nhân đậu xanh hoặc nhân thịt vào giữa, sau đó vê tròn lại, bánh nặn càng tròn bao nhiêu thì khi nấu, bánh sẽ phồng được nhiều hơn.
Bánh ngào Nghệ An
Bánh ngào Nghệ An
Bánh nặn xong cho vào nồi luộc đến khi bánh nổi thì với ra, nhúng vào nước đun sôi để nguội làm vậy để bánh không bị dính vào nhau. Cho bánh vào nồi mật đang sôi, vặn nhỏ lửa cho mật ngấm đều vào bánh, cho thêm chút gừng tươi giã nát hoặc nước hoa bưởi để tạo mùi thơm.
Bánh ngào ăn nóng mới ngon mà nhất là lúc trời se lạnh mới cảm nhận được hết sự nồng ấm, “ngào ngạt” và thơm lừng mùi gừng.
5. Mực nháy nướng Cửa Lò
Mực nháy nướng Cửa Lò
Mực nháy nướng Cửa Lò
Mực nháy Cửa Lò còn là một trong số 10 đặc sản hải sản Việt Nam được Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam công bố. Ngoài món mực nháy, biển Cửa Lò còn có nhiều món ăn ngon như mọc cua bể, ghẹ hấp me, cháo nghêu (Cửa Lò)… tất cả những món ăn này đều tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất này.
6. Cá mát sông Giăng
Cá mát sông Giăng
Cá mát sông Giăng
Mùa cá mát thường bắt đầu từ tháng 8 âm lịch, vào ban đêm từng đàn cá từ các khe và nơi nước chảy xiết sẽ kéo nhau đi kiếm ăn. Theo người dân nơi đây thì cá mát vừa lành vừa bổ, thịt thơm, ít xương, ngon nhất là cái đầu rất mềm, ăn thấu xương. Ngoài ra cá còn có tác dụng lợi sữa, hạn chế các chứng bệnh tim mạch, thích hợp cho người lớn tuổi và người béo phì.

<! đang cập nhật>

Đặc sản Bình Thuận – Phan Thiết – Mũi Né

Với nguồn tài nguyên biển dài và phân chia nhiều nhánh mang đến cho Bình Thuận – Phan Thiết – Mũi Né vô vàn những sản vật, đặc sản của Bình Thuận từ lâu đã được các quốc gia khác công nhận như nước mắm Phan Thiết hay thanh long (Bình Thuận được biết tới là mảnh đất trồng nhiều thanh long và thanh long ở đây cũng là ngon nhất). Nhiều năm trở lại đây, Bình Thuận lại tiếp tục được xướng danh với đặc sản “mực một nắng”. Cùng với đó, bánh xèo, bánh căn, bánh tráng, cháo hàu, bánh rế… 

1. Lạ lùng món dông nướng Bình Thuận

Lạ lùng món dông nướng Bình Thuận

Lạ lùng món dông nướng Bình Thuận

Dông được làm sạch, bỏ vào tô ướp gia vị, cho vài tép sả băm nhuyễn, bỏ muối, tiêu, hạt nêm thêm một ít nước mắm chính hiệu Phan Thiết để gia tăng hương vị rồi trộn đều, ướp chừng 30 phút là được. Để hương vị của món dông nướng thơm ngon nhất thì người ta phải nướng bằng lửa than.

Dông nướng ngon thì phải chín vàng hai mặt, thịt săn lại, khi ăn thấy mềm và có vị ngọt đậm đà. Dông nướng có thể ăn với bánh tráng nướng hoặc ăn với rau sống, bún và bánh tráng cuốn đều ngon. Chỉ cần cho dông vào bánh tráng, thêm bún, rau sống, đem cuốn lại rồi chấm nước mắm me thì không gì bằng.

2. Đặc sản nước mắm Phan Thiết

Đặc sản nước mắm Phan Thiết

Đặc sản nước mắm Phan Thiết

Làm nước mắm ngon cũng là một nghệ thuật. Theo thời gian, chất nước cá ứ ra được đưa ra ngoài theo một lỗ ở đáy thùng xuống thùng hứng. Nước mắm không lấy một lần mà phải lọc đi lọc lại nhiều lần, như vậy nước mắm thành phẩm mới trong và không có cặn. Từ thùng hứng chuyển lại thùng mắm cái để nước mắm thấm qua các lớp cá rồi đi ra thùng hứng như cũ. Việc làm xoay vần như thế và mỗi ngày làm một lần. Chỉ sau khoảng năm hôm là nước “chín”, tức đã thành nước mắm.
3. Độc đáo món răng mực Phan Thiết

Độc đáo món răng mực Phan Thiết

Độc đáo món răng mực Phan Thiết

Răng mực là cục tròn, nhỏ xíu trên phần đầu mực thường bị nhiều người nhầm tưởng là mắt mực hay miệng mực. Trước đây, khi chế biến mực, người ta thường bỏ đi vì cho rằng không ăn được nhưng ngày nay, nó dần trở thành một thứ đặc sản hấp dẫn của Phan Thiết.

Từ răng mực Phan Thiết, người ta có thể chế biến được rất nhiều món ăn khác nhau như răng mực chiên nước mắm, răng mực chiên bơ, răng mực nướng, răng mực xào bơ tỏi… Răng mực lớn thì dành để luộc, loại vừa thì ướp rồi xiên vào que để nướng hoặc xào lăn, loại nhỏ nhất cho vào nồi bột đã đầy đủ gia vị cho món chiên. Răng mực luộc ăn kèm với rau răm, đồ chua, muối tiêu có thêm vài giọt chanh để chấm, cũng có thể chấm tương ớt, tương đen, tương xí muội và có cả sa tế cho những người thích ăn cay.

4. Bánh tráng cuốn mắm ruốc

Bánh tráng cuốn mắm ruốc

Bánh tráng cuốn mắm ruốc

Bánh tráng cuốn mắm ruốc khác bánh tráng nướng chấm mắm ruốc truyền thống ở Phan Thiết ở chỗ dùng loại bánh mỏng hơn, thêm nhiều nguyên liệu hơn và cách chế biến cầu kỳ hơn. Về hình dáng, món bánh cũng tương tự bánh tráng cuốn ở Nam Bộ, nhưng phần bánh tráng cuốn bên ngoài được cuộn lại từng chút một khi nướng trên than hồng.

Bí quyết làm nên một cuốn bánh đẹp mắt, dễ ăn nằm ở khâu nướng và cuộn bánh khi nướng. Bánh tráng không được quá dày hay mỏng để dễ cuộn khi nướng và không bị vỡ vụn lúc thưởng thức. Để cuộn được bánh khi nướng, người ta dùng hai chiếc đũa sắt dài. Một chiếc đặt phía trong tấm bánh đã trải trên vỉ nướng, một chiếc đặt ngoài. Lúc nướng cần canh lửa kỹ sao cho bánh tráng vừa chín tới thì cuộn lại, nếu cuộn quá sớm thì bánh tráng không giòn, còn cuộn muộn thì bánh thường bị vỡ. Bánh tráng vừa nướng xong, nóng hổi và thơm phức, phải ăn ngay mới ngon và thường ăn kèm với tương ớt.

5. Bánh tráng chấm mắm ruốc


Bánh tráng chấm mắm ruốc
 Bánh tráng chấm mắm ruốc
<!đang cập nhật>



Đặc sản Tây Nguyên

Một trong những món đặc sản chủ yếu của vùng núi rừng Tây Nguyên chính là món thịt nai. Thịt nai tươi khác thịt bò tươi ở chỗ ít gân hơn, mềm hơn thịt bê non. Người Tây Nguyên luôn tự hào về món gà nướng sa lửa trứ danh – phiên bản của món gà nướng Bản Đôn lừng danh. Dẫu vậy, do tự làm nên còn giữ được nguyên bản sắc với cách kẹp tre thay vỉ nướng và không tẩm ướp gia vị hay lén hấp trước cho nhanh chín. Một loại cơm được nấu trong ống nứa non thơm lừng và quyến rũ… mang tên cơm lam. Cơm Lam được coi là món ăn của núi rừng trong đó vị ngọt của dòng suối mát và hương thơm của rừng tre nứa xanh ngút…

1. Nhộng sâu muồng Tây Nguyên

Nhộng sâu muồng Tây Nguyên

Nhộng sâu muồng Tây Nguyên

Nhộng được người ta bắt về làm sạch, thường thì người nào muốn cảm giác mạnh và thần kinh cũng mạnh mới ăn theo cách này được, nghẹ họ nói thì như vậy mới thấy hết cái hương vị béo ngậy của nó, không thì đem chiên rồi xào mắm hoặc đem luộc ăn sẽ thấy béo núc. Ăn sâu muồng uống rượu cần là cái thú của người Tây Nguyên mà phải là khách quý đến nhà họ mới chiêu đãi.

2. Phở khô Gia Lai

Phở khô Gia Lai

Phở khô Gia Lai

Năm 2012, tôi được biết đến món phở khô qua thông tin về những món đặc sản Việt Nam đạt kỷ lục châu Á. Thế rồi cứ băn khoăn tự hỏi, đã là phở thì sao lại khô? Mà nhìn trong hình thì nó đâu giống phở, giống sợi hủ tiếu hơn chứ? Có cả nước lèo mà sao lại ăn riêng vậy? Thế rồi mọi thắc mắc cũng có lời giải đáp khi lần đầu tiên đến Gia Lai tôi đã phải “mò” đến phở Hồng ở thành phố Pleiku để mục sở thị món phở hai tô này.

3. Bánh cuốn thịt nướng Buôn Ma Thuột

Bánh cuốn thịt nướng Buôn Ma Thuột

Bánh cuốn thịt nướng Buôn Ma Thuột


Bánh cuốn Buôn Mê Thuột được làm rất khéo, lát bánh mỏng trắng tinh nhưng dai giòn. Việc gói và xoay vần với miếng bánh mới thật sự thú vị. Đầu tiên là trải miếng bánh ra đĩa, sau đó gắp dưa leo, xoài, dưa chua, rau thơm và thịt nướng lên bên trên rồi gói lại, người nào khéo léo thì gói được miếng bánh tròn trịa đẹp mắt, không thì gói tạm lại để thưởng thức được. Khi ăn sẽ cảm nhận được vị cay, chua, thơm bùi nên rất vừa miêng mà lại không ngán.

4. Bún đỏ Đắk Lắk

Bún đỏ Đắk Lắk

Bún đỏ Đắk Lắk

Bún đỏ Đắk Lắk là món chỉ tìm thấy ở thành phố Buôn Ma Thuột hơn nữa tìm ăn cũng chẳng khó. Hầu hết những những chố bán thức ăn nhanh, bún, miến, cháo, phở là kiểu gì cũng có bún đỏ, nhưng Hương thích nhất là ăn ở các gánh hàng vỉa hè, vừa xì xụp vừa ngắm người. Bún đỏ ngon và nhiều hàng nhất thì phải đi đến đường Phan Đình Giót – Lê Duẩn hay vào các chợ như chợ Tân An, chợ EaTam là chuẩn nhất.

5. Bơ sáp Đắk Lắk

Bơ sáp Đắk Lắk

Bơ sáp Đắk Lắk

Mùa bơ sáp Đắk Lắk chính vụ tập trung từ khoảng tháng 5 đến tháng 8, người ta bảo bơ ở đây ngon bởi được trồng hợp với vùng đất đỏ bazan, có lớp cùi dầy, vàng và nhiều tỷ lệ bơ sáp. Nhiều người mới ăn bơ lần đầu thì sẽ thấy hơi khó ăn nhưng nếu ăn quen sẽ thấy vị ngậy và mát rất ngon miệng. Đặc biệt là quả bơ có vị thanh nên ăn không dễ ngán. Nhất là món bơ làm sinh tố thì tuyệt vời.

6. Cà phê Buôn Ma Thuột

Cà phê Buôn Ma Thuột

Cà phê Buôn Ma Thuột

Ở thành phố Buôn Ma Thuột muốn tìm quán café thì chẳng bao giờ sợ không thấy, hầu khắp các con đường các bạn cũng đều dễ dàng bắt gặp. Được một người bạn mách, Hương ghé vào làng café Trung Nguyên ở cuối đường Lê Thánh Tông, nơi được mệnh danh là thủ phủ café trong lòng thành phố Buôn Ma Thuột, đủ các thể loại café để mình chọn lựa, từ cao cấp như café chồn đến các loại café tươi, café pha sẵn đều có.

7. Rượu cần Tây Nguyên

Rượu cần Tây Nguyên

Rượu cần Tây Nguyên


Đồng bào Tây Nguyên nhà nào cũng biết làm rượu cần hết chỉ khác bí quyết và khẩu vị của từng nhà, và điểm đặc biệt đây là bí mật chỉ truyền từ mẹ sang con gái. Và một điều nữa Hương được biết là có nhiều loại rượu cần chứ không phải chỉ có 1 loại như vẫn nghĩ, ví dụ rượu thóc thì được làm từ lúa mới xay rửa sạch, ngâm rồi trộn với men, cho vào ché bịt lá chuối độ 5, 6 hôm là được, rượu cơm lại được làm từ gạo nếp nấy lên ủ men, chừng vài ba hôm là nở tràn ché rồi, còn nhiều loại nữa như rượu kê, bobo, ngô, sắn…
Trước đây thì men rượu được làm từ các loại rễ cây lấy trên rừng nhưng bây giờ thì hầu như người ta mua men được làm sẵn về. Trộn men với nguyên liệu để làm rượu theo tỷ lệ nhất định rồi đảo đều lên với trấu để sau này khi dùng ống cần hút rượu sẽ dễ dàng hơn xong rồi mới cho vào ché rồi đạy lại bằng lá chuối thật kín. Rượu cần chỉ cần ủ trong vài ngày là dùng được còn nếu ủ càng lâu thì rượu càng có độ nồng cao và đậm đà.

<! đang cập nhật>